Điều 15. Phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo
hiểm
1. Phí
bảo hiểm công trình trong
thời gian xây dựng được
xác định theo Phụ lục 7 ban
hành kèm theo Thông tư này, cụ thể như sau:
a) Đối với công trình xây dựng
được bảo hiểm có giá trị dưới
bảy trăm (700) tỷ đồng, không bao gồm
phần công việc lắp đặt hoặc có bao gồm
phần công việc lắp đặt nhưng chi phí
thực hiện phần công việc lắp đặt
thấp hơn năm mươi phần trăm (50%) tổng
giá trị hạng mục công trình xây dựng
được bảo hiểm: Phí bảo hiểm
được xác định theo điểm 1 khoản I
Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này.
b) Đối với công trình xây dựng được
bảo hiểm có giá trị dưới bảy trăm (700)
tỷ đồng, có bao gồm công việc lắp
đặt và chi phí thực hiện phần công việc lắp
đặt chiếm từ năm mươi phần
trăm (50%) trở lên tổng giá trị hạng mục
công trình xây dựng được bảo hiểm: Phí
bảo hiểm được xác định theo điểm
1 khoản II Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này.
c) Đối với các công trình xây dựng
chưa được quy định tại điểm 1 khoản
I và điểm 1 khoản II Phụ lục 7 ban hành kèm theo
Thông tư này hoặc công trình xây dựng có giá trị
từ bảy trăm (700) tỷ đồng trở lên,
doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có
thể thỏa thuận quy tắc, điều khoản,
phí bảo hiểm và mức khấu trừ trên cơ
sở bằng chứng chứng minh doanh nghiệp
đứng đầu nhận tái bảo hiểm xác
nhận nhận tái bảo hiểm theo đúng quy tắc, điều
khoản, phí bảo hiểm và mức khấu trừ mà
doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp cho bên mua bảo
hiểm. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm nước ngoài, tổ chức
nhận tái bảo hiểm nước ngoài phải được xếp
hạng tối thiểu “BBB” theo Standard & Poor’s, “B++” theo
A.M.Best hoặc các kết quả xếp hạng
tương đương của các tổ chức có
chức năng, kinh nghiệm xếp hạng khác trong năm
tài chính gần nhất năm nhận tái bảo hiểm.
2. Căn cứ vào mức độ
rủi ro của đối tượng được
bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được
điều chỉnh tăng phí bảo hiểm tối
đa 25% tính trên phí bảo hiểm quy định tại tiết
a điểm 1 khoản I Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông
tư này (đối với công trình quy định tại điểm
a khoản 1 Điều này) hoặc tiết a điểm 1 khoản
II Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này (đối
với công trình quy định tại điểm b khoản
1 Điều này).
3. Trường hợp thời gian xây
dựng công trình bị kéo dài so với thời gian quy
định tại văn bản của cấp có thẩm
quyền quyết định đầu tư khi giao
kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa
thuận phí bảo hiểm bổ sung áp dụng cho khoảng
thời gian bị kéo dài. Phí bảo hiểm bổ sung (nếu
có) được tính căn cứ vào phí bảo hiểm
quy định tại Phụ lục số 7 ban hành kèm theo
Thông tư này, tỷ lệ thời gian xây dựng kéo dài
trên tổng thời gian xây dựng công trình theo văn
bản của cấp có thẩm quyền quyết
định đầu tư khi giao kết hợp
đồng bảo hiểm và các yếu tố rủi ro
khác.
4. Thời hạn thanh toán phí bảo
hiểm công trình trong thời gian xây dựng phải
được ghi trong hợp đồng bảo hiểm,
cụ thể như sau:
a) Trường hợp đóng phí bảo
hiểm một lần: Thời hạn thanh toán phí bảo
hiểm (tạm tính) không vượt quá ba mươi (30)
ngày kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm có
hiệu lực và không chậm hơn ba mươi (30) ngày
kể từ ngày bắt đầu thời hạn bảo
hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Trường hợp thời hạn
bảo hiểm dưới ba mươi (30) ngày, thời
hạn thanh toán phí bảo hiểm không vượt quá
thời hạn bảo hiểm. Tổng số phí bảo
hiểm (tạm tính) được xác định căn
cứ vào dự toán công trình xây dựng (phần phải mua
bảo hiểm bắt buộc) được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, bao gồm cả giá trị điều
chỉnh, bổ sung (nếu có). Việc quyết toán phí
bảo hiểm thực hiện theo quy định tại khoản
6 Điều này.
b) Trường hợp đóng phí bảo
hiểm theo kỳ:
Trên cơ sở dự toán giá trị công
trình xây dựng (được cấp có thẩm quyền
phê duyệt) khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm thỏa thuận bằng văn bản các kỳ
thanh toán phí bảo hiểm như sau:
- Kỳ thanh toán đầu tiên: Thanh toán
tối thiểu 10% tổng số phí bảo hiểm
(tạm tính) đối với các hạng mục công trình
xây dựng được bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm. Tổng số phí bảo
hiểm (tạm tính) được xác định căn
cứ vào dự toán công trình xây dựng (phần phải mua
bảo hiểm bắt buộc) được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Thời hạn thanh toán phí
bảo hiểm không vượt quá ba mươi (30) ngày
kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm có
hiệu lực và không chậm hơn ba mươi (30) ngày kể
từ ngày bắt đầu thời
hạn bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm.
- Các kỳ thanh toán tiếp theo: Số
tiền thanh toán, tiến độ thanh toán phí bảo
hiểm của từng kỳ thanh toán tiếp theo
được thực hiện theo thỏa thuận
giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo
hiểm nhưng không chậm hơn tiến độ thanh
toán của hợp đồng xây dựng đối
với công trình xây dựng (phần phải mua bảo
hiểm bắt buộc) theo quy định của pháp luật.
- Kỳ thanh toán cuối cùng: Thời
hạn thanh toán phí bảo hiểm trước mười
lăm (15) ngày tính đến ngày kết thúc thời hạn
bảo hiểm.
- Việc quyết toán phí bảo hiểm
thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều
này.
5. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể
thỏa thuận cho bên mua bảo hiểm nợ phí bảo
hiểm. Việc nợ phí bảo hiểm phải
được thỏa thuận bằng văn bản và chỉ
được áp dụng khi bên mua bảo hiểm có tài
sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán phí
bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
6. Việc quyết toán phí bảo hiểm
phải căn cứ vào giá trị quyết toán hợp
đồng xây dựng (phần phải mua bảo hiểm
bắt buộc), cụ thể như sau:
a) Trường hợp giá trị quyết toán hợp đồng
xây dựng (phần phải mua bảo hiểm bắt
buộc) tăng so với giá trị dự toán
được cấp có thẩm quyền phê duyệt khi giao
kết hợp đồng bảo hiểm, phí
bảo hiểm được
điều chỉnh tăng tương ứng. Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm thanh
toán số phí bảo hiểm còn thiếu cho doanh nghiệp
bảo hiểm trong thời hạn ba mươi (30) ngày
kể từ ngày có văn bản phê duyệt giá trị
quyết toán hợp đồng xây dựng của cấp
có thẩm quyền.
b) Trường hợp giá trị quyết toán hợp đồng
xây dựng (phần phải mua bảo hiểm bắt
buộc) giảm so với giá trị dự toán
được cấp có thẩm quyền phê duyệt,
phí bảo hiểm được điều
chỉnh giảm tương ứng. Doanh
nghiệp bảo hiểm phải
trả
cho bên mua bảo hiểm phần phí bảo hiểm đã thanh toán thừa trong thời hạn ba
mươi (30) ngày kể từ ngày doanh nghiệp bảo
hiểm nhận được văn bản phê duyệt
giá trị quyết toán công trình xây dựng của cấp có
thẩm quyền do bên mua bảo hiểm gửi.
Bên mua bảo hiểm có
trách nhiệm thu hồi phần phí bảo hiểm giảm
này từ doanh nghiệp bảo hiểm. Trường
hợp bên mua bảo hiểm là nhà thầu trong hoạt
động đầu tư xây dựng và phí bảo
hiểm công trình đã được tính vào giá hợp
đồng, nhà thầu trong hoạt động đầu
tư xây dựng phải trả lại cho chủ
đầu tư xây dựng số phí bảo hiểm đã
thu hồi từ doanh nghiệp bảo hiểm.
------------------------------------------------------------------------
Xem: Toàn văn Thông tư số 329/2016/TT-BTC
ü Phạm vi và đối tượng áp dụng
ü Lược sử áp dụng
o
Từ 1/3/2017 đến nay: Thông
tư số 329/2016/TT-BTC